Ba tỉnh giáp biển của Canada, bao gồm New Brunswick, Nova Scotia và Prince Edward Island đều đẹp lộng lẫy theo những cách riêng. Dẫu vậy, New Brunswick lại là tỉnh ít được quan tâm nhất khi người ta tìm nơi nghỉ mát. Nơi này nên được khám phá nhiều hơn.
Vài năm trước, trong một lần thăm thú Đảo Grand Manan, tôi đã chết lặng trước vẻ đẹp hoang sơ của nơi đây.
Ngay khi thuyền trưởng phà Grand Manan V. hò vang: “Nhìn sang mạn phải, hướng 11 giờ,” con phà chạy chậm lại rồi dừng hẳn, còn chúng tôi thì ùa ra mạn tàu ngắm năm cặp Cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương nhào lộn, ngụp lặn ở trong Vịnh Fundy. Lời chào từ đảo Grand Manan đã khơi dậy trong chúng tôi một niềm vui phấn khích khi nhìn nghi thức giao phối huyên náo của loài động vật có vú này, và những con người xa lạ dần bắt chuyện với nhau về kế hoạch khám phá làng chài đẹp như tranh vẽ, những con đường mòn và đường bờ biển gồ ghề.
Nép mình trong Vịnh Fundy, hòn đảo rộng 142km2 này cách Cảng Black Harbour 90 phút đi phà và 1 giờ lái xe từ thành phố Saint John. Đảo Grand Manan là thiên đường cho dân đi bộ đường dài, đạp xe, chèo thuyền kayak và cả dân ngắm chim. Được bình chọn là một trong 7 quần đảo nhỏ đẹp nhất thế giới năm 2018 bởi tạp chí Reader’s Digest, Grand Manan là một thiên đường mặn mòi nơi bạn có thể đánh chén tôm hùm mới bắt trên những bãi biển hẻo lánh, nghỉ ngơi tại một trong rất nhiều nhà nghỉ bed & breakfast và theo dõi hơn 360 loài chim,
Sau khi nhận phòng tại nhà trọ Compass Rose ấm cúng, tôi và chồng ghé tiệm bánh North Head Bakery mua một đống đồ rồi thẳng tiến đến nơi tổ chức tour ngắm cá voi. Chúng tôi muốn ngắm nhìn thêm các “chúa tể đại dương” và đã không bị thất vọng.
Thuyền trưởng chỉ cho chúng tôi Cá voi vây, Cá voi Minke, Cá voi lưng gù và cá heo. Chúng tôi còn có cơ may được chứng kiến một đàn hải âu cổ rụt bay ngang.
Trong chuyến tham quan, chúng tôi được biết rằng người ta đã thiết lập môi trường sống trọng yếu cho Cá voi trơn Bắc Đại Tây Dương từ năm 2009 để thêm một lớp bảo vệ cho các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Một khu vực phía đông của đảo, bao gồm cả lưu vực Grand Manan, đều rất quan trọng đối với cá voi khi chúng ở trong Vịnh Fundy.
Một trong những lý do khiến số lượng cá voi ngày càng giảm là do chúng bơi chậm và thường bị các tàu di chuyển nhanh đâm phải. Năm ngoái, lệnh giới hạn tốc độ 10 hải lý/giờ đã có hiệu lực từ tháng 4 đến tháng 11 đối với các tàu lớn ở phía tây Vịnh St. Lawrence. Kết quả qua theo dõi cho thấy lệnh giới hạn có vẻ như đã tạo ra một chút khác biệt, nhưng vẫn cần nhiều hành động hơn.
Khi trở lại đất liền, chúng tôi muốn tìm hiểu về địa lý của hòn đảo và đã mua một tấm bản đồ đường mòn. Mỗi ngày, chúng tôi đi dọc theo một con đường khác nhau băng qua bờ biển tuyệt đẹp, cánh rừng thơm mùi cây và những bãi cỏ xanh rì.
Một buổi chiều, chúng tôi tham gia tour chèo thuyền kayak trên biển và chèo vào một vùng nước lặng nhỏ, ngang qua vòm đá có tên Hole-in-the-Wall, một đàn cá trích và cả những chú hải cẩu tò mò. Chúng tôi kết thúc một ngày bằng bữa tối dã ngoại, ăn tôm hùm thơm ngon bên bờ biển do hướng dẫn viên sắp xếp.
Lác đác trên đảo Grand Manan là những lò hun khói cá trích cổ xưa, chúng tôi được nhiều người bản địa kể về những công việc đầu tiên họ làm, bao gồm xâu, hun khói và lóc xương những con cá nhỏ màu bạc. Tại hòn đảo này, nghề đánh bắt cá trích một thời hưng thịnh từng nuôi sống cư dân trên đảo từ cuối những năm 1800 đến những năm 1990.
Tại làng Seal Cove, có một bảng thông tin của Công viên Canada giải thích cách cư dân phân chia công việc. Trong khi đàn ông đánh bắt cá tại các vùng nước giàu dinh dưỡng dọc theo bờ biển, phụ nữ và trẻ em lại chế biến các mẻ cá. Lân la loanh quanh làng, chúng tôi đếm được khoảng 54 sào phơi cá trích, hoặc nhà phơi cá, được coi là di tích lịch sử. Thả hồn đăm chiêu vào nhà gỗ, sào gỗ, tôi gần như đang chứng kiến quang cảnh buôn làng nhộn nhịp kẻ bán, người mua, đổi chác cá trích – thứ thực phẩm trân quý đối với các thị trường Hoa Kỳ và Trung Mỹ – Caribê (Tây Ấn).
Lái xe dọc Đường 776, đường cái của hòn đảo, đập vào mắt của chúng tôi là nhiều biển quảng cáo tảo dulse. Ghé vào một cửa hàng, chúng tôi được biết rằng loại rong tím này mọc trên đá và được thu hoạch thủ công khi thủy triều xuống, sau đó phơi nắng cho khô. Món này giòn giòn, mặn mặn, tanh tanh, nhiều vitamin, thường dùng làm món ăn nhẹ hoặc gia vị trong salad và súp.
Để tìm hiểu về lịch sử của hòn đảo, chúng tôi đã đến tham quan Bảo tàng Grand Manan. Các cuộc triển lãm thường trực bao gồm Phòng trưng bày chim Allen Moses, Triển lãm điêu khắc chim Lincoln Harvey, Triển lãm về nhà văn Willa Cather, Triển lãm xe tang của gia đình Graham, Triển lãm Dark Harbour Hermits (những người anh em độc thân đã thu hoạch tảo dulse trong những năm 1920-30), Phòng trưng bày tàu đắm, bẫy tôm hùm, phục dựng nhà chòi của ngư dân, thiết bị trồng trọt, chăn nuôi trong lịch sử, và một phòng trưng bày các chuyến phà của Grand Manan với ảnh, tranh và kỷ vật.
Đối với những người chơi ngắm chim, đảo Grand Manan là một trong những điểm đến hàng đầu Bắc Mỹ vì nó nằm trên một trục đường bay chính đông của chim di cư. John James Audubon đã đến đây vào năm 1831 để ghi tài liệu về Mòng biển châu Âu và Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương, những loài động vật đã dần biến mất do những người định cư lấy trứng mòng biển từ tổ của chúng và sử dụng Hải âu cổ rụt để câu cá. Rất may, những quần thể này đã phục hồi. Ngày nay, trên đảo đã xác định hơn 360 loài chim, 100 loài trong số đó sinh sản ở đảo. Các tour du lịch đặc biệt có thể đưa du khách đến xem các đàn chim biển làm tổ, bao gồm cả hải âu cổ rụt, chim Alca và chim common murre.
Những người theo dõi chim di cư đến Grand Manan có thể cảm ơn Allan Moses, một ngư dân có niềm đam mê điều khiển học, sinh ra trên đảo vào năm 1881. Nhờ những nỗ lực của ông, một số khu bảo tồn chim đã được tạo ra trên bờ biển phía đông của Canada. Khu bảo tồn chim di cư Grand Manan mở cửa vào năm 1931 và vào năm 1935, trạm Bowdoin Scientific Station trên Đảo Kent gần đó được thành lập để xác định, bảo tồn và giám sát một mạng lưới các địa điểm cung cấp môi trường sống cần thiết cho các quần thể chim của Canada. Một trong những địa điểm này, được khai trương vào năm 1944, là hàng xóm của Grand Manan, Khu bảo tồn chim di cư Đảo hải cẩu Machias.
Thời Moses còn đang giúp bảo tồn môi trường sống, thì Willa Cather, cây bút nổi tiếng với những câu chuyện về miền Tây nước Mỹ, đã tận hưởng Grand Manan như một nơi ẩn náu và sáng tạo. Mỗi mùa hè từ năm 1922 đến năm 1940, bà cùng bạn đời Edith Lewis bay từ nhà ở New York và ngụ trong một ngôi nhà nhỏ để viết lách, tránh xa đô thị phiền hà. Tác phẩm văn học cuối cùng của bà là “Sapphira và Cô gái nô lệ”, được hoàn thành vào năm 1940 trong mùa hè cuối cùng của bà trên đảo. Ngôi nhà nhỏ cuối cùng đã trở thành một phần của nhà trọ Inn at Whale Cove và gần đây đã được chuyển thành một bất động sản cho thuê đơn nhất.
Dù đại dịch COVID-19 đã cản trở nhiều kế hoạch du lịch, nhưng nó sẽ không kéo dài mãi mãi. Sau đại dịch, đảo Grand Manan chính là một viên ngọc không nên bỏ qua. Chẳng phải chúng ta đều đang mơ về một nơi nhỏ bé để ẩn náu và phục hồi đó ư?
This content is also available in:
English
See details
0 nhận xét:
Đăng nhận xét